Bộ Chính trị chiến tranh: Đường lối chính trị và ngoại giao của Bắc Việt trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 (Phần I)

Liên Hằng T. Nguyễn

Vy Huyền dịch

Đôi nét về tác giả: Liên Hằng T. Nguyễn là Phó giáo sư (Assistant Professor) khoa Sử, Trường Ðại học Kentucky, Hoa Kỳ. Bài viết này dựa theo một chương trong luận án tiến sĩ của tác giả, "Giữa những cơn bão: Lịch sử thế giới về Chiến tranh Việt Nam 1968-1973" (Đại học Yale). Tác giả chân thành cảm ơn Larry Berman, David Elliott, John Lewis Gaddis, Christopher Goscha, Jim Hershberg, Duy Hoàng, David Hunt, Edward Miller, Lorraine Paterson, Julie Phạm, Andrew Preston, Samuel Popkin, Sophie Quinn-Judge, Balasz Szalontai, và Peter Zinnoman, những người đã góp ý và cung cấp những tài liệu quan trọng cho tác giả trong thời gian nghiên cứu và viết nên bài viết này. Tác giả đặc biệt cảm ơn ông Hoàng Minh Chính đã dành cho tác giả buổi gặp gỡ trong chuyến đi Hoa Kỳ ngắn ngủi của ông.
Trích yếu: Bài viết này nghiên cứu về tranh cãi chiến lược đưa Hà Nội đến quyết định chiến tranh năm 1959, gia tăng chiến tranh năm 1963 và cuộc tấn công Tết Mậu Thân (TMT) 1968. Phe chủ chiến nắm bộ máy lãnh đạo Đảng đã thúc đẩy quá trình đấu tranh vũ trang ở miền Nam thay cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Bên cạnh những tranh giành trong nội bộ, phe này còn phải luồn lách giữa mâu thuẫn của Liên Xô và Trung Quốc để có thể tiến hành chương trình chiến tranh của mình. Bài viết chứng minh TMT là dấu hiệu cho thấy phe chủ chiến đã loại được những kẻ chống đối bên trong và bên ngoài bằng việc thanh trừng hàng loạt các đảng viên trong Vụ án xét lại chống Ðảng (VAXLCÐ). 

Dù cuộc tấn công TMT 1968 tạo ra bước ngoặt then chốt trong cuộc chiến thứ hai ở Đông Dương, nhưng những tiến triển trong quá trình chuẩn bị và những quyết định của Bắc Việt liên quan đến cuộc tấn công này vẫn chưa được làm sáng tỏ. Chiến lược thận trọng của Hà Nội trong khoảng thời gian từ mùa xuân năm 1967 đến đầu năm 1968 vẫn còn nằm trong vòng bí mật. [1] Thiếu những tài liệu chính thức liên quan đến TMT, đã có rất nhiều những cuộc tranh luận nổ ra về nguyên căn, mục đích, và thời điểm của những quyết định then chốt của cuộc tấn công mà những lãnh đạo Bắc Việt gọi là "Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa." Những sử sách của Việt Nam và phương Tây hiện thời chỉ đưa ra những câu trả lời hạn chế.[2] Theo sử gia David Elliot, “đã bao thập niên trôi qua từ TMT, Ðảng và những sử gia quân đội vẫn hết sức kín đáo về quá trình quyết định dẫn đến cuộc tấn công năm 1968.” [3] 

Bộ Chính trị chiến tranh: Đường lối chính trị và ngoại giao của Bắc Việt trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 (Phần II)

Liên Hằng T. Nguyễn 

Vy Huyền dịch

Tổn thất đầu tiên của cuộc chiến 

Mặc dù cơ cấu nội bộ của Đảng đặt Hà Nội ở vị thế phải tiến hành chiến tranh, nhưng tại Ðại hội Ðảng lần 3, lãnh đạo của ĐLĐVN vẫn không thể công khai đề cập đến cuộc chiến ở miền Nam. [1] Trong một bài viết trên tờ Nhân dân Nhật báo năm 1960, Mao tố cáo Khrushchev là kẻ theo chủ nghĩa xét lại; để trả đũa, trong kỳ họp quốc hội ở Bucharest, Krushchev lên án Mao là kẻ thiên lệch. Bắc Việt, như bất kỳ những nước nhỏ và vừa khác trong khối cộng sản, bị cuốn theo những cách biệt quan điểm ngày càng lớn. Những lãnh đạo Hà Nội mong muốn được giúp đỡ từ nhiều phía nên không muốn lặp lại những gì đã xảy ra ở Bucharest ở Ðại hội Ðảng lần 3. Họ không muốn đưa ra những vấn đề có thể làm cho mối rạn nứt Nga-Trung ngày càng lớn hơn. Thêm vào đó, cả hai đồng minh này đều không toàn tâm toàn ý ủng hộ việc Hà Nội tiếp tục chiến tranh. Khrushchev và ĐCSLBXV phản bác kế hoạch "chiến tranh địa phương" với lý do Liên Xô sợ rằng bất kỳ một mâu thuẫn nào giữa phương Tây và phương Đông đều có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân, và [do đó], ĐLĐVN nhấn mạnh lòng mong muốn được thống nhất trong hoà bình. [2] Mặc dù vào đầu năm 1960, Mao và các lãnh đạo Trung Quốc ủng hộ Nghị quyết 15 của ĐLĐVN, Bắc Kinh vẫn khuyên Hà Nội nên tập trung vô đấu tranh chính trị và tránh để chiến tranh leo thang nhanh chóng. [3] Vì vậy, ở đại hội đảng, các lãnh đạo miền Bắc chỉ đề cập một cách mập mờ về chiến lược cho cuộc chiến với miền Nam và cụ thể hơn về việc xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. [4] 

Bộ Chính trị chiến tranh: Đường lối chính trị và ngoại giao của Bắc Việt trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 (Phần III)

Liên Hằng T. Nguyễn

Vy Huyền dịch

Vụ án xét lại - chống Đảng (VAXLCĐ) 

Năm 1967, ở Hà Nội xảy ra hàng loạt những vụ bắt bớ liên quan đến VAXLCĐ. [1] Nhóm bị buộc tội âm mưu lật đổ chính quyền gồm những người thuộc mọi thành phần: từ cấp bộ trưởng, các nhân vật cao cấp trong QĐND, uỷ viên TƯ, đại biểu Quốc hội, lãnh đạo chính phủ, những cựu chiến binh ưu tú, cho đến giới trí thức, nhà báo, giáo sư, bác sĩ v.v... Sau chiến dịch chống phe hữu khuynh và cuộc điều tra của QĐND năm 1964, cuộc thanh trừng năm 1967 là bước kế tiếp của những tranh giành quyền lực ở Bắc Việt, nhưng nó cũng liên quan chặt chẽ đến những cuộc tranh cãi về chiến lược và kế hoạch đối với miền Nam. [2] 

Xem Sống trong sợ hãi – Những điều đáng sợ hơn cả bom mìn

Vy Huyền

Ngày 9 tháng 4.2007, bộ phim Sống trong sợ hãi (Living in Fear), đã đoạt giải Phim hay nhất trong cuộc thi “Giải thưởng tài năng mới Châu Á” tại Liên hoan phim quốc tế Thượng Hải lần 9, của đạo diễn trẻ Bùi Thạc Chuyên, được trình chiếu tại Pacific Film Archive Theater, thành phố Berkeley. Sau phần chiếu phim là phần trao đổi giữa khán giả và đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. 

Sống trong sợ hãi là câu chuyện xảy ra tại miền Trung Việt Nam (tỉnh Ninh Thuận) vào năm 1975, một thời gian ngắn sau ngày kết thúc cuộc chiến. Phim xoay quanh cuộc sống của nhân vật Tải, một người lính Việt Nam Cộng hòa trong xã hội mới. Năm 1975, sau một thời gian đi tù cải tạo, Tải trở về quê của mình tìm kế sinh nhai. Vì “hoàn cảnh chiến tranh,” Tải có đến hai người vợ; hai người đàn bà này hoàn toàn khác nhau. Thuận, người vợ đầu của Tải, xuất thân từ gia đình có người anh theo cách mạng. Anh của Thuận, Hai Dân, là bạn thời thơ ấu của Tải; khi lớn lên, hai người đi theo hai chiến tuyến khác nhau. Sau năm 1975, Hai Dân trở thành cán bộ cao cấp của huyện, còn Tải trở thành một kẻ thua cuộc, lâm vào thế bần cùng. Út, người vợ hai của Tải, không có xuất thân “đặc biệt” như người vợ đầu; cô đại diện cho hình ảnh người phụ nữ bình thường ở các vùng quê miền Nam Việt Nam. 

Lột trần chân tướng của Mao

Ronald Radosh
Hoài Phi, Vy Huyền dịch
Tương truyền Stalin từng nói rằng, “một cái chết là một thảm kịch, hàng ngàn cái chết chỉ là một thống kê.” Vậy chúng ta, trong một chốc, hãy ngẫm nghĩ về thống kê này, từ câu đầu tiên của Jung Chang và Jon Halliday trong tiểu sử đồ sộ mới đây về Chủ tịch Mao: “Mao Trạch Đông, người nhiều thập niên nắm giữ quyền lực tuyệt đối về sinh mệnh của một phần tư dân số thế giới, chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn 70 triệu người trong thời bình, hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào của thế kỷ XX.” 

Hãy suy nghĩ về điều này một chốc. Con số kinh khủng đó vượt quá con số người chết dưới tay Stalin và Hitler cộng lại. Nhưng trong khi gần như không thể tìm thấy một ai trên thế giới ngày nay tán dương hình ảnh tốt lành một thời của Stalin và Hitler – thật vậy, thậm chí có rất ít người thừa nhận mình có thiện cảm với hai kẻ bạo chúa này – thì ngược lại, danh tiếng của Mao hầu như không hề bị tổn thương. Chính phủ hiện thời vinh danh Mao là người sáng lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Bức chân dung lớn của ông được treo ở ban công trên cổng thành nhìn ra Quảng trường Thiên An Môn, nơi Mao đã từng nói chuyện với đám “Hồng Vệ binh” cuồng nhiệt, và là nơi năm 1949, ông tuyên bố sự ra đời của một thể chế cách mạng mới. Tính chính đáng của thể chế này bắt nguồn từ việc thành lập một nước Cộng sản Trung Quốc sau khi Hồng quân của Mao chiến thắng, giành quyền lực thành công, buộc quân đội Quốc gia do Tưởng Giới Thạch cầm đầu phải chạy sang đảo Đài Loan. 

Sự khủng hoảng đức tin của Mẹ Teresa

Chúa Jesus có một tình thương đặc biệt với cha. Nhưng với riêng tôi – Sự im lặng và trống rỗng quá lớn – đến nỗi tôi nhìn mà không thấy – lắng nghe mà không tỏ – Mẹ Teresa đã viết như vậy trong thư gởi đến Đức giám mục Michael Van Der Feet, tháng 9, 1979. 
                                                                                                      * 
Ngày 11 tháng 12, 1979, Mẹ Teresa, “vị Thánh của những kẻ khốn cùng”, đến thành phố Oslo. Trong bộ áo choàng xari trắng viền xanh quen thuộc cùng với đôi sandal, dù cho bên ngoài trời lạnh dưới không độ C, Agnes Bojaxhiu (tên khai sinh của Mẹ Teresa) nhận giải thưởng được cả thế giới tôn vinh, giải Nobel Hoà bình. Trong bài diễn thuyết nhận giải, Mẹ Teresa, người sáng lập và biến dòng Thừa sai Bác ái từ ý nghĩ rồ dại của một người phụ nữ ở Calcutta năm 1948 thành ánh sáng toàn cầu về sự quên mình, đã đưa ra một thông điệp mà cả thế giới đều chờ đợi từ bà. “Thật không đủ nếu chúng ta nói rằng, ‘Tôi yêu mến Thiên chúa nhưng tôi không yêu thương những người xung quanh tôi’”, bà nói, vì khi chịu chết trên Thập giá, Thiên chúa đã “[tự trở thành] một người đói khát – người trần truồng – người không chốn nương thân.” Bà nói, sự đói của Chúa Jesus, là điều mà “bạn và tôi phải tìm” và xoa dịu. Bà lên án việc phá thai và than khóc cho những thanh niên nghiện ngập của phương Tây. Cuối cùng, bà đề nghị rằng mùa lễ Giáng sinh sắp đến nhắc nhở cả thế giới rằng “niềm vui lan toả là điều có thật” vì Chúa cứu thế ở khắp mọi nơi – “Chúa cứu thế ngự trong trái tim chúng ta, Chúa cứu thế ngự trong những người nghèo khó chúng ta gặp, Chúa cứu thế ở trong nụ cười chúng ta trao va trong nụ cười chúng ta đón nhận.”